Vùng duyên hải miền Trung gồm 6 tỉnh: Thừa Thiên Huế, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung
ương. Diện tích tự nhiên toàn vùng khoảng 38.236,42 km2; dân số toàn vùng là
8.186.871 người, mật độ trung bình 214 người/km2 (số liệu thống kê năm 2010).
Phần lớn dân cư trong vùng sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển. Vùng
miền núi ở phía tây của vùng là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số, với
mật độ dân cư thưa thớt hơn.
1. Không gian văn hóa vùng
Khác với hai vùng châu thổ ở hai đầu đất nước vốn được bồi tụ từ
một trục sông chính cùng với sự kết nối chặt chẽ của các chi lưu, vùng duyên
hải miền Trung là nơi chịu sự phân cắt mạnh bởi địa hình, tạo thành các tiểu
vùng, giới hạn bởi các dải núi từ dãy Trường Sơn ở phía tây vươn ra tới biển.
Các dòng sông trong vùng thường ngắn và dốc, chảy theo hướng đông - tây ra
biển, lưu vực nhỏ, cửa sông thường bị chế ngự bởi các cồn cát chạy dài dọc bờ
biển. Vì thế trong toàn vùng không có sự liên kết trực tiếp bằng mạng lưới
đường thủy như các vùng châu thổ ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Do đặc điểm cắt xẻ của nhiều dòng chảy và sơn hệ chằng chịt trên
cùng một dải địa hình như vậy nên vùng duyên hải miền Trung thường bao gồm
những dải đồng bằng nhỏ hẹp, vừa mang tính chất cận duyên lại vừa mang tính
thung lũng rừng núi. Nếu không kể những bãi bồi của rất nhiều dòng chảy do địa
hình dốc từ sườn đông của núi tạo nên, thì dải đất mà người ta gọi là đồng
bằng, thực chất chỉ là sự trải rộng của chân núi, một chút “hào phóng” của tạo
hóa ban cho người dân sống bằng nghề nông nghiệp. Chính vì vậy, có những đoạn
núi lấn sát tận mặt nước biển thì khoảng đồng bằng ấy bị thu nhỏ lại hoặc biến
mất. Điều này khiến vùng duyên hải miền Trung Việt Nam mang nhiều điểm tương
đồng với các vùng khác trong khu vực Đông Nam Á bán đảo và hải đảo, tuy nhiên,
có một điểm khác biệt nổi bật là “sự vắng bóng một con sông thống hợp
như Mê Kông hay Irrawady (Myanmar)”.
Với đặc điểm cấu tạo địa hình như vậy, không gian văn hóa vùng
duyên hải miền Trung thường bao hợp cả không gian văn hóa biển đảo, văn hóa
duyên hải, văn hóa nông thôn đồng bằng và văn hóa miền núi - trung du.
1.1. Văn hóa biển đảo
Duyên hải miền Trung nằm ở vị trí “ưỡn ra” của dải bờ biển nước
ta, nơi biển sâu, có dòng hải lưu từ phía bắc qua rìa đảo Hải Nam (Trung Quốc)
xuống các tỉnh duyên hải miền Trung tạo nên thế mạnh của các nguồn thủy sản và
nghề đánh bắt cá. Bên cạnh đó, các chuỗi quần đảo và đảo như: Hoàng Sa (Đà
Nẵng); Cù Lao Chàm (Quảng Nam); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Cù Lao Xanh, Hòn Đất, Hòn
Khô, Hòn Ông Cò, Hòn Nghiêm Kinh Chiểu, Hòn Trâu, Hòn Đụn, Hòn Tranh, Hòn Rùa
(Bình Định), Cù Lao Hòn Nần, Hòn Nhất Tự Sơn, Cù Lao Ông Xá, Hòn Mái Nhà, Hòn
Chùa (Phú Yên); và Hòn Nội, Hòn Ngoại, Hòn Tre, Trường Sa (Khánh Hòa)… cũng tạo
nên diện mạo văn hóa giàu chất biển hơn các vùng khác trên cả nước.
Trong nhiều thế kỷ trước, một số đảo ở vùng duyên hải miền Trung
đã có con người cư trú. Trong đó, quần đảo Cù Lao Chàm từng là bến cảng nằm
trên “con đường tơ lụa trên biển” nối liền từ đông sang tây, có tính chất và
niên đại cùng với cảng Kokokhao, Laempho của Nam Thái Lan, cảng Mantai của
Srilanca khoảng thế kỷ IX - X.1 Một số đảo hiện nay như Cù Lao
Chàm, Lý Sơn, Cù Lao Xanh… vẫn có con người sinh sống, họ canh tác trên những
thửa ruộng bậc thang và hành nghề biển, họ vẫn lưu giữ những phong tục, tập
quán, kiêng kỵ, lễ hội gắn liền với đời sống văn hóa của cư dân sông nước.
Cũng như các vùng khác trong nước, vào những thế kỷ trước, việc
khai thác biển của người Việt vẫn chỉ dừng lại ở mức khai thác biển cận duyên,
con người vẫn “đứng trước biển” chứ chưa vượt ra đại dương để đánh bắt cá xa
bờ, buôn bán trên biển hoặc khai thác các nguồn tài nguyên nơi thềm lục
địa. Điều này được lý giải bởi nguyên nhân là trong môi trường hết sức
hung dữ, tiềm ẩn nhiều tai ương của biển, con người rất sợ hãi và khó lòng
chinh phục nếu như không được hỗ trợ của kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu như
người Việt ở Bắc Bộ và Nam Bộ chỉ ưu tiên khuynh hướng “quai đê lấn biển” để có
ruộng làm nông nghiệp thì người Việt ở vùng duyên hải miền Trung lại khác. Do
thiên nhiên tạo nên ở vùng biển miền Trung các luồng hải lưu gần bờ, đã đem đến
cho vùng biển này những luồng cá lớn đi sát bờ, và do địa hình có núi vươn ra
sát biển, hoạt động nông nghiệp khó khăn do đồng bằng chật hẹp, nên khi thiên
di tới vùng đất này, người Việt buộc phải thích nghi với biển. Vì vậy, có thể
nói, chất biển đậm màu trong văn hóa của người Việt ở vùng đất này, thể hiện
trong nếp sống văn hóa với những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội dân
gian.
1.2. Văn hóa duyên hải
Vùng duyên hải miền Trung được che chắn bởi những cồn cát nằm
ven biển chạy dọc từ bắc xuống nam. Phía sau những cồn cát rộng lớn bao giờ
cũng có những đầm hồ hẹp, là dấu tích của vụng biển cũ. Cũng có khi rìa phía
sau là cả một con sông dài chảy song song với bờ biển, một mặt nó đánh dấu một
cách rõ rệt đường bờ biển cũ, một mặt nó lại là một con đường giao thông nội
địa quan trọng cho ghe thuyền đi lại ven biển, điều này thể hiện rất rõ ở sông
Cổ Cò chảy từ Hội An ra Đà Nẵng trong những thế kỷ trước. Mặc dù là những vùng
đất cát, nhưng nhờ những bàu và sông mà cư dân người Việt đã tìm được ở đây nơi
định cư, họ hình thành nên những làng mạc, đặc biệt là những làng chài lưới và
đánh cá.
Trên vùng duyên hải này, khi tiến dần về phương Nam mở cõi,
người Việt đã gặp biển và theo truyền thống nông nghiệp, họ “quai đê lấn biển”,
khai phá những vùng sình lầy, phù sa ven biển và sử dụng một số biện pháp khử
mặn, rửa chua, thuần hóa đất… Về đại thể, họ xử lý không gian biển cũng giống
như cách xử lý của không gian đồng bằng. Cư dân vùng này tuy sống ven biển
nhưng do điều kiện môi trường và phương tiện khai thác thủy, hải sản còn hạn
chế, nên chỉ một bộ phận trong số họ sinh sống bằng nghề biển. Phần dân cư còn
lại sống bằng nghề nông, trồng các loại hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày
như khoai, sắn, đậu phụng, thuốc lá... trên các vùng đôộng cát
và một ít lúa nước trong những dải đất hẹp ở các cồn bàu ven biển. Chính điều
này đã tạo nên những nét văn hóa mang đặc trưng riêng, không giống các
làng/xã thuần ngư khác ở trong nam, ngoài bắc: Những
làng/xã ở vùng duyên hải miền Trung, tuy là mang danh là làng ngư
nghiệp, song trong đền thờ của làng thì thờ tiền khai canh,
vốn làm nghề chài lưới, nhưng hậu khai khẩn lại là dân làm
ruộng (hay ngược lại); vừa có những lễ hội cầu ngư nhưng vừa
có lễ đảo vũ (cầu mưa), cầu cho mùa màng phong đăng hòa cốc.
Mặt khác, do ở sát biển, nên họ nhận ra giá trị của biển, từ đó, mà phát triển
nghề đánh bắt cá và nghề làm muối. Mùa hè, họ lợi dụng chế độ thủy triều lên
xuống để đưa nước biển vào ruộng và phơi khô làm muối. Một số nơi có nghề làm
muối phát triển và nổi tiếng trong cả nước như Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Tuyết
Diêm (Phú Yên), Ninh Diêm (Khánh Hòa).
Cư dân ở vùng duyên hải miền Trung do tiếp xúc với biển và nhiều
luồng văn hóa khác nhau nên đã tích lũy được một số kiến thức nhằm khai thác
biển, như nhận thức về các hiện tượng tự nhiên, độ nông sâu, thoải dốc của bờ,
các dòng hải lưu nóng lạnh, chế độ thủy triều, chu kỳ con nước, các loại hải
vật và sinh hoạt của chúng trong không gian và thời gian, các công cụ đánh bắt,
hướng gió, mây, trăng, sao… cùng những kiêng kỵ dần dần hình thành trong đời
sống văn hóa của họ.
Khắp vùng duyên hải miền Trung, từ Thừa Thiên Huế cho đến Khánh
Hòa, nơi đâu chúng ta cũng bắt gặp những hình thức tín ngưỡng dân gian độc đáo.
Những nét văn hóa này cho dù đã trải qua bao thế kỷ nhưng vẫn không hề mất đi
mà chúng được các thế hệ người dân gìn giữ truyền hết đời này sang đời khác,
cho dù trong quá trình tiếp xúc với các cộng đồng cư dân khác, đôi khi cũng có
sự giao hòa giữa cái mới và cái cũ, hoặc hình thành nên những phong tục, tập
quán, nghi lễ mới, phần nhiều gắn liền với đời sống của cư dân nông nghiệp hoặc
hành nghề sông nước.
1.3. Văn hóa đô thị
Vùng duyên hải miền Trung trải dọc theo bờ biển, với cấu tạo địa
hình đặc trưng là hẹp về chiều ngang và bị chia cắt thành nhiều tiểu vùng bởi
các mạch núi vươn từ rìa dãy Trường Sơn ra sát biển. Cùng với nó là các con
sông ngắn, dốc, hẹp, chủ yếu chảy theo hướng tây - đông. Những đặc điểm này về
địa hình không chỉ tạo cho khu vực này mang một diện mạo tự nhiên đặc trưng mà
còn hình thành nên một phong cách văn hóa mở. Có nhà nghiên cứu cho rằng: cư
dân miền Trung mang một tập quán lao động nông nghiệp lúa nước, tiềm ẩn một
chút gì đó phong cách sơn cước nhưng cũng mở ra một hướng nhìn rộng ra biển,
nền móng cho sự hình thành của đô thị giao lưu biển.
Phía trước là biển cả đã đem lại cho cư dân nơi đây không chỉ
không gian biển đầy sóng gió và những nguồn lợi phong phú từ đại dương, mà còn
tạo cho họ một phong cách sống, một lối tư duy khoáng đạt, rộng mở, sẵn sàng
đón nhận những luồng dịch chuyển văn hóa mạnh mẽ từ bên ngoài vào. Phong cách
sống, lối tư duy đặc trưng ấy cùng với thời gian, với những con sóng, ngọn gió
cùng với sự quần cư của số đông người ven những con sông thì diện mạo đầu tiên
của một đô thị được hình thành.
Từ sau cuộc hôn nhân lịch sử giữa quốc vương Chế Mân của Champa
với công chúa Huyền Trân của Đại Việt vào năm 1306, thì vùng đất Ô, Lý của
Champa trước đây đã thuộc về lãnh thổ Đại Việt. Từ sự kiện này, vùng đất Thuận
Hóa (nay là địa bàn các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) và một phần Quảng Nam
(nay là địa bàn Đà Nẵng và các huyện phía bắc của Quảng Nam) được hình thành và
cư dân Việt bắt đầu di trú đến vùng đất này. Trải qua các triều đại: Trần, Hồ,
Lê, chúa Nguyễn, người Việt tiếp tục đi về phía nam, vượt bao đèo cao hiểm trở,
qua bao sông rộng, đến mở mang, khai phá nên những vùng đất mới mà sau này
chính là địa bàn của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa…
Dưới thời các chúa Nguyễn cai trị ở Đàng Trong (1558 - 1775),
nhiều đô thị thương cảng được hình thành và phát triển rực rỡ như Hội An (Quảng
Nam), Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định)... Những đô thị cổ này thường nằm
bên những con sông lớn, bởi nó thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng
hóa bằng đường thủy. Những cảng thị ấy xuất hiện như một tất yếu trong một
không gian văn hóa của cả vùng duyên hải miền Trung, chúng được các nhà nghiên
cứu gọi là “mặt tiền văn hóa” của miền đất này. Chính đô thị là nơi gặp gỡ của
những luồng văn hóa khác nhau ở trong nước cũng như quốc tế. Sự giao lưu với
những luồng văn hóa từ bên ngoài thông qua những con sông đã tạo dựng nên một
lối tư duy của cư dân đô thị thương cảng.
Những dấu tích của một đô thị thương cảng còn được bảo tồn
nguyên vẹn chính là đô thị cổ Hội An. Theo dòng thời gian, cư dân từ mọi miền
đất nước, cả cư dân các nước Trung Hoa, Nhật Bản và những thương nhân phương
Tây đã đến đây giao thương, buôn bán hoặc định cư cùng với những phong tục, tập
quán của mình đã làm cho diện mạo văn hóa nơi đây trở nên phong phú. Giờ đây,
tuy không còn vai trò là một đô thị thương cảng như xưa, nhưng Hội An vẫn giữ
được cho mình những giá trị văn hóa đặc sắc mà ít nơi nào trên thế giới còn lưu
giữ được, Hội An vẫn là nơi được xem là trung tâm “hội thủy, hội nhân và hội
tụ” văn hóa từ khắp các vùng khác nhau. Người ta vẫn có thể tìm thấy nét đặc
trưng của một Hội An xưa kia trong lối sống của các cư dân đô thị.
Trong vùng duyên hải miền Trung đã hình thành một chuỗi đô thị:
Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang… Phần
lớn các đô thị đều đã hơn trăm năm tuổi nên đã hình thành trong lòng nó một
tầng lớp thị dân và một đời sống văn hóa đô thị. Tuy nhiên, so với các đô thị
lớn ở hai đầu đất nước, đô thị ở miền Trung là các đô thị quy mô nhỏ, tầng lớp
thị dân ở các đô thị này có gốc gác trực tiếp với tầng lớp nông dân ven đô. Vì
thế văn hóa đô thị ở trong vùng duyên hải miền Trung có tính chất đặc thù, khác
với văn hóa đô thị ở các đô thị lớn, và có mối quan hệ chặt chẽ với những vỉa
tầng văn hóa khác ở trong vùng.
1.4. Văn hóa nông thôn đồng bằng
Càng đi về phía nam, đồng bằng duyên hải miền Trung càng hẹp
lại, chỉ còn một dải đồng bằng nhỏ nằm ven biển. Các nhà địa lý, địa chất cho
rằng, đồng bằng ở đây có nguồn gốc khác nhau. Loại đồng bằng phù sa mới chỉ kéo
dài ven thung lũng sông, thường bị thu hẹp về phía biển bởi các thành tạo hỗn
hợp sông biển, hay đơn giản là các thành tạo biển dưới dạng cồn cát, trảng cát
rộng. Đất phù sa sông thường nghèo hơn phù sa châu thổ, hay bị ngập mặn do nước
biển thâm nhập vào mùa khô. Tất cả các đồng bằng này đều là những vụng biển cũ
về sau mới được bồi đắp, nhưng chưa hoàn thành xong. Hàng loạt đầm hồ còn thấy
nằm rải rác trong đồng bằng, nhất là ở sau các cồn cát và doi cát ven biển như:
đầm Cầu Hai (Thừa Thiên Huế); đầm Ông Tong, đầm Cù Mông, đầm Ô Loan (Phú Yên);
đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại (Bình Định); đầm Nga Mân,
đầm An Khê, đầm Long Thạch (Quảng Ngãi)…
Đất phù sa trong các đồng bằng này thường rất màu mỡ, bởi do địa
hình chia cắt bởi các con sông nên mạng lưới sông ngòi ở đây tương đối phát
triển, cung cấp nước cho các cánh đồng. Người dân nơi đây chủ yếu trồng lúa và
các loại cây hoa màu như mía, khoai, đậu phụng và bắp. Một số nơi người ta
trồng rất nhiều dừa như ở khu vực Tam Quan (Bình Định), những rừng dừa bạt ngàn
nơi đây ước đến 1.000.000 cây trên một chiều dài khoảng chừng 30 km, rộng 20
km, làm cho cảnh quan ở đây xanh và tươi mát lạ thường.
Trong quá trình tiếp xúc với biển, cư dân ở vùng duyên hải đã
biết vượt qua những khó khăn, trở ngại để canh tác trên đồng ruộng và hướng
biển. Trên những cánh đồng, họ biết cách để “dẫn thủy nhập điền” tưới tiêu hoa
màu. Không phải ngẫu nhiên mà thời gian qua, các nhà khảo cổ đã phát hiện những
dấu vết của hệ thống mương máng thời cổ ở một số tỉnh, thành duyên hải miền
Trung. Trên hệ thống mương cổ này, người dân đã nạo vét để tạo thành một mạng
lưới thủy nông tương đối dày, phục vụ tưới tiêu nông nghiệp. Bên cạnh đó, họ
còn biết khai thác nguồn nước ngầm bằng cách đào nhiều giếng ngoài ruộng, bên
cạnh mỗi giếng lại có chiếc “cần vọt” để múc nước lên tưới cho lúa, mía và hoa
màu.
Chính vì vậy, văn hóa của cư dân đồng bằng chính là văn hóa nông
nghiệp, hình thành nên những phong tục, tập quán, lễ hội,… gắn liền với các
hoạt động sản xuất nông nghiệp như tục làm đất, bắt mộng, tát nước, hạ điền,
thượng điền, tục đảo võ cầu mưa, cầu bông, bón phân, gặt lúa, cúng cơm mới, xôi
mới, trồng cây hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày…, với những điệu hò, câu lý
trong lao động sản xuất, hò khoan đối đáp của trai gái nông thôn… Tất cả đã tạo
nên những nét đẹp trong đời sống của người dân nông thôn quanh năm chân lấm tay
bùn.
1.5. Văn hóa miền núi - trung du
Vùng duyên hải miền Trung có diện tích rừng chiếm tỷ lệ lớn ôm
gọn mặt phía tây, nhiều nơi núi còn nhô ra sát biển bao lấy cả ba mặt đồng
bằng, hoặc ngay giữa đồng bằng người ta thấy nổi lên những khối núi. Người dân
bản địa sinh sống ở vùng đồi núi này là các tộc người thiểu số như Katu, Cor,
Cadong, Raglai, Xêđăng, Giẻ - Triêng, Hrê, Bana, Chăm,… Khác với người Việt ở
đồng bằng Bắc Bộ từ xa xưa vẫn coi rừng núi là “rừng thiêng nước độc, sơn lam
chướng khí”, đồng bào dân tộc ở đây hoàn toàn quen thuộc và gắn bó với núi
rừng. Họ biết cách chinh phục tự nhiên, khai thác những vùng đất bằng hoặc đất
thung lũng phục vụ việc canh tác lúa nước, canh tác nương rẫy trồng lúa khô và
các loại hoa màu khác. Đồng thời, họ sống cùng rừng nên biết cách trồng rừng,
bảo vệ rừng và khai thác tài nguyên rừng, trong đó có những sản phẩm quý như
trầm hương, những loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như quế…
Một đặc trưng lớn nhất và cơ bản trong đời sống của người dân
miền núi là nếp sống nương rẫy. Đây là nếp sống chủ đạo và bao trùm lên tất cả
các tộc người trong Vùng. Về kinh tế, đó là truyền thống canh tác nương rẫy
trên vùng đất khô của sơn nguyên. Về xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các
quan hệ cộng đồng công xã làng buôn, các quan hệ bình đẳng, dân chủ của xã hội
nguyên thủy,... Có thể nói, toàn bộ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh
thần của dân tộc miền núi duyên hải miền Trung gắn bó với rừng núi và nương
rẫy, từ tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, nghi lễ, đời sống tình cảm… Đó có thể
được gọi chung là văn hóa rừng.
Cũng do nền kinh tế nương rẫy và trình độ phát triển xã hội
tương ứng mà nền văn hóa của họ cơ bản vẫn là nền văn hóa dân gian cùng những
tri thức và kinh nghiệm bản địa về bảo vệ rừng, chống xói mòn đất, kinh nghiệm
xen canh, luân canh… Và đôi khi chúng được thần bí hóa và khoác bên ngoài lớp
áo linh thiêng trong hoàn cảnh con người bất lực trước tự nhiên và xã hội, nên
cái tốt, điều xấu đều trông mong, tin cậy vào điềm báo, làm cho hiện tượng điềm
báo trở thành hiện tượng phổ biến xâm nhập vào toàn bộ đời sống, kinh tế, xã
hội và văn hóa của họ. Bao bọc xung quanh thế giới thực của họ là một thế giới
huyền ảo, ở đó có sự ngự trị của thần linh, ma quỷ, các linh hồn. Đó là quan
niệm “vạn vật hữu linh”, một quan niệm tín ngưỡng sơ khai của loài người trong
xã hội nguyên thủy. Họ cho rằng, mọi vật xung quanh con người đều có yang (hồn,
thần), từ các vật dụng như chiêng, ché, đến cây cỏ, sông suối, đồi núi, các con
vật… Có yang tốt phù hộ cho con người, có yang xấu
làm hại con người nếu làm chúng không vừa lòng. Chính quan niệm yang đã
tạo ra những cảm giác tinh tế giữa người và vật, chúng tạo nên những xúc cảm,
những tưởng tượng có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống văn hóa và những sáng tạo
của con người nơi đây. Tuy nhiên, chúng cũng tạo ra những lớp bao quanh con
người là những hồn, ma, khiến con người luôn lo sợ trước lực lượng siêu nhiên.
Có thể nói, các tộc người cùng sinh sống trên vùng núi duyên hải
miền Trung có những nét tương đồng và khá đặc trưng về quan niệm ứng xử giữa
thế giới người sống và người chết, từ đó tạo nên cả một hệ thống những tập tục,
nghi lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh thế giới người chết, tạo nên một hiện
tượng văn hóa dân gian mang tính tổng thể - sinh hoạt nhà mồ. Từ đó, họ sáng
tạo ra nghệ thuật trang trí nhà mồ, tượng nhà mồ, các nhạc cụ, bài hát, điệu
múa dành riêng cho sinh hoạt lễ hội nhà mồ.
Điểm nổi bật trong đời sống văn hóa của tất cả các tộc người
sinh sống trên vùng núi Trung Bộ là lễ hội. Đây là loại hình sinh hoạt tín
ngưỡng, đánh dấu những hoạt động sản xuất nương rẫy của cư dân từ lúc chặt cây,
gieo hạt tới khi thu hoạch mang lúa về kho; là mốc đánh dấu những sinh hoạt của
đời sống con người từ khi sinh đẻ, cưới xin, mừng sức khỏe, tới lúc chết; là
sinh hoạt cộng đồng, từ gia tộc đến cả làng buôn như nghi lễ cúng bến nước, lễ
cầu no đủ và sức khỏe, lễ lên nhà mới… Trong các lễ hội đó, nghi lễ hiến sinh
trở thành quan trọng và không thể thiếu được, ngày nay nó vẫn còn hiện diện
trong đời sống của nhiều tộc người thông qua nghi lễ đâm trâu. Điều đặc biệt là
trong các lễ hội truyền thống, trong ma chay, cưới hỏi, nghi lễ tôn giáo… không
thể thiếu tiếng chiêng. Tiếng chiêng gắn bó với mỗi đời người từ thuở lọt lòng
cho đến khi trưởng thành và đến lúc chết; tiếng chiêng âm vang suốt vụ mùa, từ
đầu tháng tìm rẫy đến cuối năm gặt hái, săn bắn; tiếng chiêng thôi thúc dân
trong làng trong suốt mùa lễ hội, gọi mời khách ngoài làng, đánh thức thần linh
trong rừng, trên trời.
2. Di sản văn hóa
2.1. Văn hóa vật thể
* Di tích lịch sử văn hóa
Vùng duyên hải miền Trung là nơi có nhiều di tích LSVH bậc nhất
Việt Nam. Trong đó có 3 quần thể di tích LSVH đã được UNESCO công nhận là Di
sản văn hóa thế giới. Đó là: Quần thể di tích cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Đô
thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam).
Hầu như ở bất kỳ tỉnh thành nào cũng đều có nhiều di tích LSVH
gắn liền với những cư dân đã từng sinh sống trên mảnh đất này. Đâu đó trong
lòng đất, người ta lại bắt gặp những hiện vật của cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh
có niên đại cách nay trên dưới 2.000 năm, hay những kiến trúc đền tháp của nền
văn hóa Champa tồn tại ở khắp các địa phương trong vùng, từ Thừa Thiên Huế cho
đến Khánh Hòa, nơi nào cũng có các đền tháp Champa.
Cho đến khi những lưu dân người Việt tiến về phương Nam, trên
chặng đường dừng chân tại vùng duyên hải miền Trung, họ đã định cư, sinh sống
và để lại những di sản kiến trúc như: đình chùa, đền miếu, lăng tẩm, thành
quách, cung điện, nhà cửa… Ở nơi nào, chúng ta cũng bắt gặp những di tích, có
di tích được nhà nước công nhận, có di tích do chính quyền địa phương công nhận
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Phần nhiều trong số đó là những
di tích gắn liền với danh nhân lịch sử, chứng tích lịch sử, cơ sở tín ngưỡng
tôn giáo… Những di tích này cứ gợi nhắc về cội nguồn dân tộc, về truyền thống
đấu tranh của dân tộc trước những thế lực ngoại bang xâm chiếm.
* Các bảo tàng
Tất cả các tỉnh thành trong vùng duyên hải miền Trung đều có bảo
tàng. Có nơi chỉ một bảo tàng, có nơi lại hai đến ba bảo tàng. Phần lớn các bảo
tàng trong vùng là bảo tàng tổng hợp hay bảo tàng khảo cứu địa phương, nhằm lưu
giữ, trưng bày, những hiện vật về đời sống tự nhiên, lịch sử, con người...
trong vùng. Ngoài ra, còn có những bảo tàng chuyên ngành hoặc bảo tàng chuyên
đề như: Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, Bảo tàng Văn hóa Huế, Bảo tàng Điêu khắc
Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch Hội An, Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh, Bảo
tàng Sinh vật biển Nha Trang… Hoặc những bảo tàng danh nhân như: Chi nhánh Bảo
tàng Hồ Chí Minh (Thừa Thiên Huế), Bảo tàng Quang Trung (Bình Định), Nhà lưu
niệm bác sĩ Yersin (Khánh Hòa)…
Nhìn chung, các bảo tàng đã giới thiệu đến công chúng về vùng
đất con người duyên hải miền Trung, cũng như những nền văn hóa, những giai đoạn
lịch sử, những chứng tích tội ác của kẻ thù. Đồng thời thể hiện tinh thần đấu
tranh kiên cường của quân và dân miền Trung trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, cũng như trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc từ ngày
giải phóng thống nhất đất nước đến nay.
* Danh lam thắng cảnh
Vùng duyên hải miền Trung hiện nay có chiều dài bờ biển khoảng
1.161 km, với nhiều vũng, vịnh và những bãi tắm đẹp hấp dẫn du khách trong và
ngoài nước như: Thuận An, Cảnh Dương Lăng Cô (Thừa Thiên Huế); Xuân Thiều, Mỹ
Khê, Non Nước (Đà Nẵng); Cửa Đại, Tam Thanh (Quảng Nam); Mỹ Khê, Sa Huỳnh
(Quảng Ngãi); Quy Nhơn, Hoàng Hậu (Bình Định); Tuy Hòa, Bãi Môn - Mũi Điện (Phú
Yên); Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa)...
Bên cạnh đó, duyên hải miền Trung còn nhiều cảnh sắc thiên nhiên
tươi đẹp, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo nổi tiếng như: Sông Hương,
Ngự Bình, Thiên Thai, Bạch Mã, Hải Vân, Lăng Cô, Cảnh Dương, Thúy Vân (Thừa
Thiên Huế); Bà Nà, Sơn Trà, Hải Vân, Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng); Cù Lao Chàm, Hồ
Phú Ninh, Suối Tiên, mõm Bàn Than (Quảng Nam); Thiên Ấn niêm hà, Cổ Lũy Cô
thôn, Lý Sơn (Quảng Ngãi); Bán đảo Phương Mai, Bãi tắm Hoàng Hậu, Suối Tiên,
Hầm Hô thắng cảnh, Hồ Núi Một, Động Cườm (Bình Định); Đầm Cù Mông, Vịnh Xuân
Đài, Gành Đá Đĩa, Bãi Bàng, Bãi Gốc, Bãi Môn - Mũi Điện và Vũng Rô (Phú Yên);
Hòn Chồng - Hòn Đỏ, Đại Lãnh (Khánh Hòa)… Tất cả hòa quyện vào nhau để tạo
thành một bức tranh hài hòa giữa bàn tay con người và của tạo hóa.
Ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), người dân thờ Bà trong một ngôi đền sát
cửa biển như một vị thần phù hộ cho người đi biển. Còn người Việt, người Cor và
người Hoa ở Trà Bồng (Quảng Ngãi) thì thờ Bà trong ngôi đền Trường Bà như vị
thần phù hộ việc buôn bán và hòa hiếu giữa các dân tộc. Ở Đà Nẵng, người ta
cũng thờ Bà, nhưng mỗi nơi cũng có những khác nhau. Tại miếu Nam Thọ (quận Sơn
Trà), Thiên Ya Na được phối thờ với Phật Bà theo hệ thống kinh kệ của đạo Mẫu ở
điện Hòn Chén. Trong khi đó, một ngôi miếu ở Khuê Trung (quận Hải Châu) thì lại
phối thờ Thiên Ya Na với Ngũ Hành không theo hệ thống của điện Hòn Chén; tại An
Hải (Sơn Trà), Bà được thờ và gọi là Bà Chúa Ghe; tại Ngũ Hành Sơn có miếu thờ
Bà gọi Bà Chúa Ngọc. Còn ở Hội An (Quảng Nam), Bà được gọi là bà Chúa Lồi…
Ngoài Thiên Y A Na, ở các tỉnh duyên hải miền Trung, nơi đâu có
người Hoa sinh tụ thì nơi đó có đền thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, vị nữ thần Biển
trong tín ngưỡng của người Hoa, nhằm cầu mong sự phù hộ, độ trì của Bà trong
công cuộc mưu sinh trên biển.
Có lẽ đặc trưng và điển hình nhất cho tín ngưỡng dân gian
vùng ven biển miền Trung là tục thờ cá Ông (cá voi). Có thể nói, đi đến đâu
chúng ta cũng bắt gặp tục thờ này và cá Ông được tôn xưng với các tước hiệu
khác nhau như Nam Hải Đại Tướng Quân, Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần, Đại Càn Nam Hải
Đại Tướng Quân, Đông Hải Ngọc Lân Tôn Thần và các danh xưng dân gian khác như:
Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Lớn, Ông Sanh, Ông Chuông, Ông Cậu… Trong các làng,
nhất là làng chài lưới trên biển đều có lăng thờ cá Ông. Hàng năm, vào những
ngày nhất định liên quan đến nghề đánh cá, người dân tổ chức lễ Nghinh Ông từ
ngoài biển về để tế lễ và múa hát bả trạo.
Tục thờ cá Ông gắn với một hiện tượng có thật về cá voi hay cứu
người, cứu thuyền lúc bão tố ngoài khơi. Do vậy, có thể coi nghi thức thờ phụng
cá Ông của cư dân miền Trung như là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể,
trong đó cốt lõi là tục thờ cúng cá Ông, một loại hình tín ngưỡng đặc trưng của
cư dân ven biển.
Một hiện tượng tín ngưỡng mang sắc thái khá đặc trưng của cư dân
duyên hải miền Trung là tục thờ Cô Bác. Đó là tục thờ những người bị hoạn nạn,
nhất là bị hoạn nạn trên biển. Khác với thờ cúng tổ tiên theo dòng tộc trong
mỗi gia đình, đây là hình thức thờ cúng của cộng đồng, thường có đền thờ riêng
hay phối thờ ngoài đình hay trong các ngôi đền miếu cùng các vị thần linh khác.
Ngoài ra, tại các làng xã còn thờ cúng nhiều vị thần linh khác, như thờ Bà Thủy
(Bà Thủy Long, một trong năm bà Ngũ Hành), Bà Roi, Tiền Hiền, Hậu Hiền và nhiều
thần linh mang tính địa phương. Các thần linh kể trên thường không có đền miếu
thờ riêng mà được phối thờ chung trong một ngôi đền miếu. Cho nên có thể xem
đây là một hiện tượng tín ngưỡng mang tính pha tạp và hỗn dung, trong đó sắc
thái tín ngưỡng biển và tín ngưỡng nông nghiệp lồng vào nhau.
* Lễ hội
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa lâu đời, có sức lôi cuốn mọi
tầng lớp nhân dân và đã trở thành một nhu cầu sinh hoạt tinh thần không thể
thiếu của nhân dân ta trong nhiều thế kỷ. Trải qua tiến trình lịch sử, lễ hội
đã hình thành những đặc trưng cơ bản, khẳng định những giá trị văn hóa, nhân
văn của con người, hướng con người vươn tới ước mơ, những điều tốt lành... và
góp phần xây đắp những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp trong cộng đồng dân tộc. Ngày
nay, trên dải đất duyên hải miền Trung, ở bất kỳ vùng, miền nào cũng có những
sinh hoạt lễ hội truyền thống khá đậm nét như: hội đua ghe/thuyền, hội vật làng
Sình, lễ hội cầu ngư, lễ hội điện Hòn Chén, lễ vía Quan Thế Âm... (Thừa Thiên
Huế); lễ hội Mục đồng Phong Lệ, lễ hội cầu ngư, lễ hội Quan Thế Âm... (Đà
Nẵng); lễ hội Bà Thu Bồn, lễ hội cầu ngư, lễ vía Quan Công, lễ vía Thiên Hậu...
(Quảng Nam); hội đua ghe thuyền, lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ cầu ngư...
(Quảng Ngãi); lễ hội cầu ngư (Phú Yên); lễ hội Tháp Bà Nha Trang, lễ hội Am
Chúa, lễ hội cầu ngư... (Khánh Hòa). Qua một số lễ hội trên cho thấy, phần lớn
sinh hoạt lễ hội gắn liền với đời sống tín ngưỡng của cư dân sông nước.
Ngoài các lễ hội truyền thống, có nguồn gốc từ lâu đời, hiện
nay, có nhiều lễ hội văn hóa đương đại, lễ hội du lịch được tổ chức ở nhiều địa
phương trong vùng nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức văn hóa của nhân dân và thu
hút du khách, phục vụ phát triển du lịch ở các địa phương trong vùng. Tiêu biểu
là các lễ hội, sự kiện văn hóa sau:
- Festival Huế (Thừa Thiên Huế): Đây là một trong những lễ hội
văn hóa lớn nhất vùng và cả nước. Festival Huế được tổ chức 2 năm một lần, vào
mùa hè của các năm chẵn10, nhằm mục đích tôn vinh các di dản và các
giá trị văn hóa Huế. Festival Huế có nhiều chương trình lễ hội cộng đồng được
tái dựng với một không gian rộng lớn cả trong và ngoài thành phố như: Đêm Hoàng
cung, Lễ tế Nam Giao, Lễ tế Xã Tắc, Lễ Truyền lô và vinh quy bái tổ, Lễ lên
ngôi của hoàng đế Quang Trung, Hội thi Tiến sĩ võ... Ngoài ra, trong festival
Huế còn có các lễ hội và sinh hoạt văn hóa đương đại như: lễ hội áo dài, lễ hội
biển, thi thả diều, trò chơi thả thơ, diễn thơ, chợ quê ngày hội, trò chơi cờ
người, đua trải... đã góp phần làm sống lại các giá trị văn hóa, lịch sử của
mảnh đất cố đô.
- Festival nghề truyền thống Huế (Thừa Thiên Huế): được tổ chức
2 năm một lần vào các năm lẻ; bắt đầu từ năm 2005 với các nghề: thêu, nón lá;
năm 2007 với nghề chạm khắc, đúc đồng, kim hoàn; năm 2009 với các nghề gốm sứ,
pháp lam, sơn mài; năm 2011 với chủ đề “Bếp Việt trong vườn Huế”, tôn vinh hai
nghề ẩm thực và cây kiểng… Cùng với festival Huế, thành công của các festival
nghề truyền thống Huế đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng về kinh tế, khẳng
định vị thế Huế là thành phố festival.
- Lễ hội Quán Thế Âm (Đà Nẵng): Tổ chức hàng năm vào ngày 19
tháng 2 âm lịch tại khu danh thắng Ngũ Hành Sơn. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày
với phần lễ mang đậm màu sắc, lễ nghi Phật giáo và phần hội vô
cùng sôi nổi với nhiều hoạt động văn hóa – thể thao mang đậm bản sắc dân tộc
như: hội hóa trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, họa, điêu khắc, múa tứ linh, thả
đèn trên sông, hát tuồng... các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và
tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn
chay... thu hút hàng nghìn tăng ni, Phật tử và nhân dân, du khách cùng tham gia.
- Cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng: Được tổ chức lần đầu
tiên vào năm 2008, cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế hàng năm ở Đà Nẵng đã nhanh
chóng trở thành một “thương hiệu” du lịch đắt giá của thành phố Đà Nẵng nói
riêng và vùng duyên hải miền Trung nói chung; bởi mỗi kỳ thi thu hút tới hàng
trăm nghìn du khách trong và ngoài nước với doanh thu lên đến hàng trăm tỷ đồng.
- Lễ hội Quảng Nam - Hành trình di sản: Đây là sự kiện văn hóa
được tổ chức định kỳ hai năm một lần (các năm lẻ) vào tháng 6 dương lịch; điểm
nhấn của lễ hội này là làm nổi bật giá trị từ quá khứ đến hiện tại của hai di
sản Mỹ Sơn, Hội An, để mọi người cảm nhận rõ hơn sức sống của di sản.
- Lễ Khao lề lính thế Hoàng Sa (Quảng Ngãi): Đây là lễ hội được
nhân dân huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi duy trì hàng trăm năm
nay nhằm ghi nhận và tưởng nhớ công ơn những “hùng binh” Hoàng Sa thời
xưa, là những người theo lệnh các nhà nước phong kiến, đã đi ra các vùng biển
đảo xa xôi như Hoàng Sa, Bắc Hải (Trường Sa) để tìm kiếm sản vật và cắm mốc
biên giới hải phận, xác lập chủ quyền quốc gia, mà không trở về. Lễ hội được tổ
chức tại Âm Linh Tự (một di tích được xếp hạng quốc gia) vào các ngày 18, 19,
20 tháng 4 âm lịch hàng năm với nhiều hoạt động phong phú, trong đó đặc biệt
nhất là nghi thức thả thuyền giấy ra biển, ngụ ý con dân đất Việt sẽ mãi duy
trì việc ra biển như cha ông thuở trước... Vào những ngày diễn ra lễ hội, người
địa phương còn tổ chức đắp sửa và dọn các ngôi mộ của các chiến sĩ hải đội
Hoàng Sa (dân nơi đây gọi là Mộ gió). Lễ hội này không chỉ mang ý nghĩa phục vụ
công tác nghiên cứu văn hóa cộng đồng cư dân ven biển Việt Nam, du lịch mà còn
thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, truyền thống gìn giữ và bảo vệ lãnh thổ và
lãnh hải của đất nước.
- Lễ hội Đống Đa - Tây Sơn (Bình Định): Tổ chức vào ngày mồng 5
tháng Giêng âm lịch hằng năm để kỷ niệm trận thắng Ngọc Hồi - Đống Đa của hoàng
đế Quang Trung Nguyễn Huệ. Đây là lễ hội lớn nhất nước để tưởng nhớ các thủ
lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là người anh hùng áo vải Quang Trung và
kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, đánh thắng quân xâm lược Mãn Thanh.
Ngoài nghi lễ truyền thống, lễ hội còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa dân gian
như: biểu diễn võ thuật Tây Sơn, trống trận Tây Sơn, đua thuyền, trò chơi dân
gian, hát tuồng... diễn lại trận đánh lịch sử với những y phục, voi trận như
ngày xưa vua Quang Trung ra trận.
- Festival biển Nha Trang, Khánh Hòa: Được tổ chức 2 năm một lần
vào các năm lẻ, festival biển Nha Trang được các hãng lữ hành lớn đánh giá là
tâm điểm của các tour du lịch mùa hè ở trong vùng. Với gần 60 hoạt động lễ hội
truyền thống và hiện đại gắn liền với chương trình hội thảo, hội nghị, hội thi
sáng tác văn học nghệ thuật, ẩm thực, biểu diễn ca – múa nhạc thời trang… giúp
mọi người khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của vùng biển Nha Trang yên lành, thơ mộng.
Trong thời gian tổ chức festival biển còn có nhiều hoạt động thu hút cộng đồng
chung tay bảo vệ môi trường biển Nha Trang.
* Làng nghề và nghề truyền thống
Cùng với quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam, trải qua các
triều đại Trần, Lê, Hồ, Nguyễn… là những cuộc di dân đi khai khẩn. Trong đoàn
người đi tiếp nhận vùng đất mới, có không ít những người thợ lành nghề, những
dòng họ thủ công mỹ nghệ nổi tiếng. Những người thợ di dân ngoài việc thừa kế
những gì vốn có ở cố hương, họ còn tiếp thu, chọn lọc, điều chỉnh để tiếp tục
sản xuất, đồng thời hình thành một số làng nghề thủ công khác đáp ứng nhu cầu
cuộc sống mới.
Do diện tích đất đai canh tác nông nghiệp hạn hẹp, nguồn nguyên
liệu dồi dào nên từ xưa, vùng duyên hải miền Trung đã phát triển các làng nghề
và nghề thủ công truyền thống như nghề đúc đồng Phường Đúc, làng gốm Phước
Tích, làng nón Triều Sơn, làng hoa giấy Thanh Tiên, làng rèn Hiền Lương, làng
đan lát Bao La... (Thừa Thiên Huế); làng làm nước mắm Nam Ô, nghề điêu khắc đá
ở Non Nước, làng dệt chiếu Cẩm Nê... (Đà Nẵng); làng mộc Kim Bồng, làng gốm
Thanh Hà, làng đúc đồng Phước Kiều, làng dệt Mã Châu, làng dâu tằm Đông Yên -
Thi Lai, làng dệt chiếu cói Bàn Thạch, làng rau Trà Quế, làng trống Lam Yên...
(Quảng Nam); làng nghề trồng dâu nuôi tằm An Phú, làng nghề đúc đồng Đức Hiệp,
làng gốm Châu Ổ (Quảng Ngãi); nghề làm nước mắm Gành Đỏ, nghề đóng ghe thuyền Đông
Tác, làng bánh tráng Hòa Đa, làng gốm Quảng Đức, nghề làm mía đường La Hai,
nghề dệt chiếu Cù Du, nghề dệt lụa Ngân Sơn… (Phú Yên); nghề đúc đồng ở Phú Lộc
Tây, làng dệt chiếu Mỹ Trạch, làng nem Ninh Hòa (Khánh Hòa)…
Nghề và những làng nghề truyền thống hiện có tại các tỉnh thành
thuộc vùng duyên hải miền Trung đã thể hiện được tâm hồn, vẻ đẹp của bản sắc
văn hóa dân tộc. Bởi các sản phẩm do họ làm ra đều mang tính thẩm mỹ cao, phản
ánh tư duy sáng tạo của con người. Thông qua các sản phẩm của các nghề và làng
nghề, phần nào đã cho thấy tính tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo của người
dân sống trên vùng đất “khô cằn sỏi đá” này.
* Ẩm thực
Văn hóa ẩm thực là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, phức thể
các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm… khắc họa một
số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc
gia… Nó chi phối một phần không nhỏ trong cách ứng xử và giao tiếp của một cộng
đồng, tạo nên đặc thù của cộng đồng ấy. Do đó, ẩm thực của cư dân miền Trung
rất phong phú. Mỗi địa phương đều có những đặc sản riêng, mang đậm bản sắc và
phong vị của từng nơi.
- Huế nổi tiếng với các món bún bò giò heo, cơm hến, bánh canh
cá lóc Thủy Dương, bánh canh Nam Phổ, cháo lòng Nam Giao, cháo le le, cháo cá Thuận
An, cháo cá trê đậu xanh, cháo bò, cháo gạo de An Cựu ăn với cá bống thệ kho
rim, cơm gà Bến Ngự, cơm Âm Phủ, cơm trái dừa, nem lụi, thịt bò kho quế, thịt
bò thưng, thịt bò nướng chanh, thịt bò nướng lá lốt, thịt heo - tôm chua, thịt
kho tàu, gỏi cá sanh cầm, bún giấm nuốc, vả trộn, bắp chuối trộn, canh cá kình
nấu với măng chua, canh cá bống thệ nấu thơm cà, canh rau tập tàng, canh măng
giang nấu cá ngạnh nguồn… Đồng thời đây cũng là xứ sở của các loại bánh và cũng
là “vương quốc của các loại chè”.
- Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, cũng là
nơi hội tụ các đặc sản ẩm thực của nhiều địa phương. Ngoài mì Quảng thì các món
như thịt heo cuốn bánh tráng, bún mắm thịt quay và bún chả cá là những đặc sản
ẩm thực dân dã… hay những sản vật của biển Đà Nẵng đã làm nên những món ngon
cho vùng đất này. Đến Đà Nẵng không thể bỏ qua những món như gỏi cá, mít non
kho cá chuồn, nộm sứa, nước mắm Nam Ô...
- Quảng Nam vốn nổi tiếng với nhiều món đặc sản bình dân. Món ăn
no thì có: mì Quảng, nổi tiếng nhất là mì Quảng Phú Chiêm, phở sắn Quế Sơn, cao
lầu Hội An, cháo lươn xanh ở Thăng Bình, hến xào xúc bánh tráng, bê thui Cầu
Mống, bánh tráng đập Cẩm Nam; bánh bèo, bánh bao, bánh vạc ở phố Hội, gà luộc
Đèo Le, cơm gà Tam Kỳ, yến sào Hội An, cá còm sông Thu rút xương rán vàng, hay
nấu với me đất…
- Quảng Ngãi cũng là nơi có nhiều món ăn đặc sản. Nổi tiếng nhất
là món don nấu canh, nấu cháo, hay xào với miến, bún, mì và cá bống sông Trà.
Ngoài đặc sản cá bống sông Trà còn có loài cá thài bai, thường được chế biến
theo ba kiểu: hấp, chiên và ram, cũng là đặc sản ẩm thực của Quảng Ngãi. Vùng
rừng núi phía tây thì có loài cá niêng, kẹp vào gắp tre tươi, nướng trên than
hồng nhắm với rượu. Vùng đồng bằng có món bánh xèo, chim mía chiên dòn hay món
bắp nếp nướng lừng danh, canh gà lá giang ở Sa Huỳnh…
- Bình Định cũng là quê hương của cá, tôm, cua, ghẹ, ốc, hàu...
Vì thế mà vùng đất này nổi danh với món cá nướng và gỏi cá, chế biến từ những
con cá mú, cá hồng to tướng và tươi rói. Dân vùng biển khoái ăn cơm với cá ngừ
kho ngọt hay chả cá thu hấp (chả cá Đề Gi). Ngoài ra còn có các món như bánh
canh chả cá; cháo cá rựa; cháo hàu; cháo cua huỳnh đế; bún tôm Mỹ Lợi; cá mú
hấp, da cá mú bông rang vàng, cá chua nướng lá chuối chấm muối ớt tươi hay nem
nướng Chợ Huyện… Hè về, người Bình Định ăn sứa xúc bánh tráng hay sứa nước lèo;
đông sang có bánh xèo Quy Nhơn; Tết đến thì không thể vắng món thịt bò thưng.
Bình Định cũng là quê hương của bánh hỏi...
- Phú Yên có nhiều loại hải sản có giá trị như: sò huyết đầm Ô
Loan; tôm hùm Sông Cầu; ghẹ đầm Cù Mông; cá ngừ đại dương... Qua bàn tay chế
biến khéo léo của người Phú Yên, những hải sản ấy đã trở thành những đặc sản
danh tiếng, mang lại dư vị khó quên cho những ai từng có dịp thưởng thức. Ngoài
ra, Phú Yên còn có các món gỏi sứa; các loại tôm rằn, tôm hùm, tôm sú, tôm đất
hấp nước dừa. Người dân sống trong vùng động cát ven biển thì có món chả dông.
Dân vùng chân núi Chóp Chài thì có món bông giờ xào thịt và đặc biệt là món
bông giờ kho cá đồng ăn trong mùa mưa lũ…
- Khánh Hòa cũng là nơi có nhiều đặc sản ẩm thực gắn liền với
biển như yến sào, hải sâm, cá mú Côn Sơn hấp gừng, tôm hùm sốt sò điệp, cháo
tôm hùm, cháo hải sản, bún cá Ninh Hòa, bún mực Vạn Ninh, bún lá cá dầm, bún
ốc, bún riêu, bún sứa, bún bò ăn với rau ghém, bánh canh chả cá, bánh căn có
nhưn, nem Ninh Hòa, tôm hùm Bình Ba, sò huyết và sá sùng Thủy Triều, gà “chỉ”
Cam Ranh, chả cá thu, chả cá rựa, chả cá nhồng; món gỏi thì có: gỏi cá, gỏi
sứa, đến gỏi ốc, gỏi mực… món nào cũng thơm ngon. Biển Nha Trang là nơi có
nhiều loại ốc như: ốc nhảy, ốc hương, ốc len, ốc giác, ốc đắng, ốc đỏ, ốc
nhung, ốc mỡ, ốc ngựa, ốc gai... Loại ốc nào cũng là nguyên liệu cho các món
hải sản cao cấp.
* Báu vật nhân văn sống
Báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures) là cái tên mà
UNESCO dùng để gọi những nghệ nhân dân gian, những người nắm giữ và phổ biến ở
trình độ cao những giá trị, kỹ năng, bí quyết văn hóa văn nghệ dân gian. Hiện
nay ở vùng duyên hải miền Trung, “báu vật nhân văn sống” còn lại không nhiều,
phần lớn do họ lớn tuổi, ít được sự quan tâm của các cấp các ngành liên quan
nên lần lượt qua đời. Thời gian gần đây, để giữ gìn những di sản văn hóa của
dân tộc nên “báu vật nhân văn sống” mới được quan tâm nhiều hơn. Những người
còn sống hiện nay cũng không nhiều, tuổi lại cao, sức yếu, trí nhớ không còn
minh mẫn nên việc trao truyền lại những kỹ năng, kỹ thuật, kiến thức… gặp nhiều
khó khăn.
Ở Thừa Thiên Huế hiện còn khoảng 20 nghệ nhân, nghệ sĩ của các
loại hình nghệ thuật nhã nhạc, tuồng và múa cung đình. Người có công lớn trong
việc bảo tồn, lưu giữ Nhã nhạc cung đình Huế lâu nay là nghệ nhân Trần Kích,
nay đã hơn 90 tuổi. Ông là một trong số ít các nghệ nhân còn lại trên đất Huế
đã góp phần cùng với Học viện âm nhạc Huế đào tạo được 2 khóa Nhã nhạc Huế hệ
đại học với sự trợ giúp về kinh phí từ phía Nhật Bản. Hiện ông đã nghiên cứu,
ký âm hoàn chỉnh, góp phần ghi lại được 30 bài bản về Đại nhạc và Tiểu nhạc để
truyền nghề cho học trò. Ông nêu tấm gương sáng, mẫu mực về tinh thần lao động
hết mình để giữ gìn cho Huế những bài nhạc lưu truyền trong dân gian, không bị
thất truyền. Kế đến là 2 nghệ nhân cuối cùng trong đội nhạc triều Nguyễn, đồng
thời là 2 anh em ruột, cũng đã ngoài hoặc suýt soát tuổi 90. Đó là cụ Lữ Hữu
Thi và Lữ Hữu Cử. Cũng như nghệ nhân Trần Kích, họ đều là những “báu vật nhân
văn sống” của Nhã nhạc Huế. Các cụ đều là những tay chơi nhạc cự phách của đội
nhạc Hòa Thanh trong cung đình (còn gọi là Tiểu nhạc).
Còn ở Đà Nẵng có Nghệ nhân Nguyễn Châu (còn gọi là Tư Châu),
sinh năm 1907 ở làng Nghi An, huyện Hòa Vang. Cụ đã có hơn 90 năm gắn bó với âm
nhạc truyền thống dân tộc và được mệnh danh là “báu vật nhân văn sống” giữa đời
thường. Với 90 năm cống hiến cho cổ nhạc, có thể nói, nghệ nhân Nguyễn Châu là
một đại thụ, là viên ngọc sáng của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, đến nay cụ vẫn
ngày đêm truyền dạy lại nghề cho con cháu, như đó chính là ước nguyện của cuộc
đời người nghệ sĩ.
Đặc biệt ở vùng núi Quảng Nam có nghệ nhân Bhling Agrun, năm nay
ông đã 52 tuổi, là báu vật sống của người Katu ở Quảng Nam. Đã 20 năm sống với
hội diễn, với sân khấu rực rỡ ánh đèn, ông biết sử dụng 13 loại nhạc cụ độc đáo
của người Katu mà hiện nay có nguy cơ bị thất truyền.